“GDP đo lường mọi thứ trừ những gì làm cuộc sống trở nên đáng sống.”
Viết bởi Nguyễn Tuệ Anh, Tiến sĩ thỉnh giảng tại Trung Tâm Phát Triển Quốc Tế, Đại học Harvard
Mặc dù phải đối mặt với khủng hoảng COVID-19, Việt Nam vẫn giữ vững tăng trưởng GDP dương vào năm 2020 (1). Ngoài ra, nhờ những thành công về kinh tế, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm trong khi thu nhập bình quân đầu người tăng (2).
Tuy nhiên, là một quốc gia trong nhóm đang phát triển, Việt Nam hiện nay phải đối mặt với câu hỏi hóc búa muôn thuở: chọn tăng trưởng hay chọn bình đẳng và bền vững? Dù trong những năm gần đây, Việt Nam luôn đạt được thành tích tăng trưởng GDP nhanh nhất thế giới, những hậu quả đi kèm về môi trường và bất bình đẳng xã hội cũng đang ngày một hiển hiện.
Khó mà phủ nhận được những lợi ích về phát triển và vật chất mà tăng trưởng kinh tế mang đến cho Việt Nam; tuy nhiên, câu hỏi quan trọng đặt ra hiện nay là những thành tựu phát triển có đủ để bù đắp được cho các thiệt hại mà môi trường và xã hội đã, đang và sẽ phải gánh chịu hay không? Và trong phần lớn trường hợp, câu trả lời cho Việt Nam là “không.”
“Không phải những thứ hữu hình mới quan trọng” (3)
GDP là một công cụ tiện lợi, nhưng cũng đơn giản hoá quá mức (4).
Thống kê về GDP bỏ qua rất nhiều hoạt động kinh tế quan trọng. Điển hình như khi phụ thuộc vào GDP để hoạch định chính sách kinh tế, người ta thường bỏ qua vai trò của phụ nữ và giá trị của phúc lợi hộ gia đình.
Ước tính sơ bộ dựa trên báo cáo của Liên Hợp Quốc cho thấy giá trị công việc của phụ nữ bị đánh giá thấp một cách đáng kể (5). Ở cả các nước phát triển và đang phát triển, trung bình một ngày phụ nữ chỉ được trả công cho một nửa khối lượng công việc họ phải cáng đáng, còn với nam giới, con số này là khoảng một phần sáu đến một phần năm ở lần lượt hai nhóm nước (6). Tổng giá trị của những công việc chăm sóc và việc nhà không lương này ước tính dao động từ 10 đến 39% GDP, con số lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của nhiều ngành trọng yếu.
Tại Việt Nam, nữ giới có thu nhập thấp hơn nam giới trong tất cả các lĩnh vực, mức chênh lệch có thể lên tới 22%, tương đương với trung bình một tháng làm việc không lương mỗi năm (7) Phụ nữ dễ chấp nhận thu nhập thấp để đổi lấy công việc ổn định và linh hoạt thời gian hơn vì ở khía cạnh văn hoá, nhiều người tin rằng nội trợ là trách nhiệm của nữ giới. Nữ giới cống hiến hơn 5 giờ mỗi ngày cho công việc gia đình, trong khi người đàn ông của họ dành ít hơn một phần ba lượng thời gian - tất cả những con số này đều không được tính trong GDP (8) Do đó, các chính sách tập trung vào tăng trưởng dễ dàng phóng đại vai trò của nam giới hơn so với nữ giới trong bối cảnh xã hội vốn đã bất bình đẳng.
Giàu có không đồng nghĩa với Hạnh phúc hay Ổn định
Trong khi GDP tập trung soi chiếu sự giàu có của một quốc gia và quy mô tương đối của sự giàu có này với thế giới, GDP cũng làm mờ đi tầm quan trọng của sức khỏe và phúc lợi xã hội trong bối cảnh đó. Khi chúng ta chạy theo mục tiêu tăng trưởng GDP cao nhất có thể, các quốc gia bước vào một cuộc đua không có điểm dừng và không có người thắng (9).
Người nhà bệnh nhân ngủ dọc hành lang tại một bệnh viện ở thành phố Đà Nẵng [Ảnh: Phạm Võ Hoàng Giang/Oxfam]
Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể nhờ tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải trên phương diện nghèo tương đối.10 Trong khi khoảng cách giữa 20% người nghèo nhất và 20% người giàu nhất không thay đổi trong giai đoạn 1990-2016, sự chênh lệch giữa người siêu giàu và người siêu nghèo đã trở nên rõ rệt hơn và bất bình đẳng giữa các khu vực và các nhóm dân tộc khác nhau cũng trầm trọng hơn (11) Do sự phân bố bệnh viện và trường học không đồng đều theo vùng miền, người dân nghèo và dân tộc thiểu số bị tước mất cơ hội tiếp cận và phát triển, và những thế hệ sau của họ cũng sẽ phải chịu số phận tương tự.
Quan niệm phổ biến rằng tăng trưởng GDP sẽ khiến toàn dân khoẻ mạnh hơn gần đây đã bắt đầu nhận ý kiến chỉ trích từ nhiều phía (12) Những hiệu ứng “nguồn lợi lan truyền dần xuống” (trickle-down effects) nếu của cải tập trung trong tay những người giàu nhất đến nay vẫn chỉ là giả thuyết chưa được chứng minh đầy đủ (13). Khi người giàu trở nên giàu hơn, thay vì phân chia của cải, họ có thể muốn bảo toàn tài sản bằng cách gây ảnh hưởng đến các thể chế kinh tế và chính trị. Mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa bình đẳng và tăng trưởng cũng chứa nguy cơ gây tổn hại cho ổn định chính trị của một quốc gia (14).
Giàu có hay Bền vững?
Chúng ta có thể chắc chắn một điều, đó là các chính sách tự do kinh tế hướng đến tăng trưởng sẽ đi kèm với hậu quả khổng lồ về môi trường. Thu nhập cao hơn sẽ khiến các công nghệ sinh thái mới có giá cả phải chăng hơn và sản xuất hiệu quả hơn, do đó gánh nặng lên môi trường được cho là sẽ giảm theo.
Động lực chính cho trọng tâm chính sách là tăng trưởng kinh tế đến mức độ nào thì sẽ thúc đẩy nhu cầu về điện. Tại Việt Nam, trong khi tăng trưởng GDP trung bình hàng năm rơi vào khoảng 5-6%, thì nhu cầu năng lượng tăng khoảng 14%/năm. Sản xuất điện tăng khoảng 15%/ năm từ 2000-2010 và tiếp tục tăng lên hơn 25% vào năm 2012. Thực tế, kể từ năm 1990, tăng trưởng cung điện đã vượt mức tăng GDP (15). Một vấn đề nổi cộm của ngành điện ở mọi nơi trên thế giới trong thời đại này là quá trình chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo. Đặc biệt là ở Việt Nam, quốc gia có lượng phát thải CO2 cao hơn mức trung bình của thế giới, với hai thành phố lớn nằm trong danh sách những thành phố ô nhiễm nhất thế giới.
Thách thức đối với ngành điện là dưới áp lực tăng trưởng mạnh, họ vẫn phải duy trì mức giá phải chăng, nguồn cung ổn định và tính bền vững trong sản xuất năng lượng. Từ đầu những năm 2000, Việt Nam bắt đầu đi theo con đường tự do hóa thị trường năng lượng để đáp ứng các mục tiêu trên, thông qua sự tham gia của tư nhân trong sản xuất năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, cần xem xét lại quan niệm để khu vực tư nhân phát triển năng lượng tái tạo, thông qua các cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư. Ngay cả Vương quốc Anh, quốc gia với ngành năng lượng có mức độ tư nhân hoá cao nhất, cũng đã bắt đầu đặt nghi vấn về mô hình này vì hệ thống ở đây đã thất bại trong việc cung cấp nguồn điện ổn định với giá cả phải chăng.
Dù thời gian không còn nhiều để nhân loại đối phó với biến đổi khí hậu, tỷ trọng nhiên liệu hóa thạch vẫn đang tăng lên, với tỷ trọng than thậm chí tăng hơn gấp đôi, (16) còn các dự án năng lượng mặt trời vẫn đang dang dở. Nếu những dự án nhà máy điện hiện tại còn tiếp tục, thì tương lai năng lượng xanh vẫn còn xa vời (17).
Thịnh vượng hay Trường tồn?
Nỗi ám ảnh với chỉ số GDP còn đáng ngại ở chỗ nó chú trọng quá mức đến mục tiêu tăng trưởng và bỏ qua nhiều vấn đề khác.
Tăng trưởng GDP vẫn là một mục tiêu hữu ích, miễn là người dùng hiểu rõ chỉ số này nói lên điều gì và không phản ánh được điều gì. Là chỉ số được sử dụng phổ biến nhất trong kinh tế học, GDP chắc chắn cho chúng ta thấy những lát cắt hữu ích về nền kinh tế và các thành phần chính trong đó; tuy nhiên, những thống kê này không nên bị đánh đồng với các thước đo về phát triển và sức khỏe. Lạm dụng quan niệm sai lầm này có thể dẫn đến hậu quả thiệt hại lâu dài, hơn cả những lợi ích nó mang lại cho cuộc sống vật chất của chúng ta. Trên thực tế, việc theo đuổi tăng trưởng bất chấp đang ảnh hưởng xấu đến cân bằng sinh thái và xã hội, vốn là những yếu tố cốt lõi trong cuộc sống của chúng ta. Sự gia tăng bất bình đẳng không chỉ là hậu quả của việc theo đuổi tăng trưởng kinh tế bởi nhóm giàu và lập luận hoang đường về “lợi ích kinh tế sẽ lan truyền dần xuống,” mà bất bình đẳng còn có thể dẫn đến bất ổn chính trị, khi tăng trưởng dựa trên tiêu dùng và sản xuất hàng loạt sẽ làm biến đổi khí hậu trở nên trầm trọng hơn.
Là một nền kinh tế mới nổi, Việt Nam chắc chắn vẫn cần phát triển. Nhưng điều quan trọng không phải là tăng trưởng nhanh nhất có thể, mà là làm sao để sức tăng trưởng ấy dẫn đến một xã hội khoẻ mạnh và bền vững.
Để đạt được mục tiêu này, điều then chốt là chúng ta phải ngừng áp dụng các chính sách kinh tế lấy tăng trưởng làm trung tâm và mô hình tăng trưởng theo chủ nghĩa tân tự do đang bị áp dụng rập khuôn. Điều quan trọng không phải là tăng trưởng bao nhiêu mà là chất lượng tăng trưởng.
Nguồn tham khảo
1 GSO (2020). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Quý IV và năm 2020. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong- ke/2020/12/baocao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2020/
2 Dữ liệu từ Nhóm Ngân hàng Thế giới
3 Trích lời Einstein.
4 Là một chỉ số kinh tế được phát triển sau chiến tranh, số liệu thống kê dựa trên GDP thu hẹp phạm vi quan tâm của chính phủ vào doanh thu thuế, chi tiêu hộ gia đình so với đầu tư kinh doanh và nợ của chính phủ. Trong chiến tranh, một quốc gia có thể ghi nhận sự gia tăng về GDP khi chi tiêu của chính phủ cho quân sự tăng lên, mặc dù đó là điều không mong muốn.
5 Liên Hợp Quốc (2015), Phụ nữ thế giới 2015: Xu hướng và thống kê.
6 Tài liệu đã dẫn, được tính toán dựa trên Hình 4.22 (trang 112) tổng hợp dữ liệu từ 10 quốc gia đang phát triển và 25 quốc gia phát triển. Một ngày làm việc thông thường là 8 giờ. Trung bình, phụ nữ ở các nước đang phát triển dành trung bình 4 giờ 30 phút mỗi ngày cho những công việc không được trả lương, còn nam giới là 1 giờ 20 phút, do đó, tương ứng với lần lượt là hơn 56% và 16%. Ở các nước phát triển, phụ nữ dành 4 giờ 20 phút (hơn 54%) và đàn ông dành 2 giờ 16 phút (khoảng 26%) mỗi ngày cho công việc không được trả lương.
7 I. Chowbury, H. Johnson, A. Mannava, và E. Peerova (2018), Khoảng cách giới trong thu nhập ở Việt Nam: Tại sao phụ nữ Việt Nam làm việc trong các ngành nghề được trả lương thấp hơn?
8 L. T. Thu và cộng sự. (2018), Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc không được trả lương của họ tại Việt Nam.
9 Người ta đã tính GDP bình quân đầu người từ năm 1000 trước Công nguyên đến giờ và nghiên cứu cho thấy về mặt vật chất, tính trung bình thì mức độ và tốc độ tăng thu nhập của chúng ta trong vài thế kỷ gần đây cao hơn bao giờ hết. Xem thêm J. B. De Long (1998) Ước tính GDP thế giới, Một triệu năm trước Công nguyên - Hiện tại. Dữ liệu được thu thập bởi Ngân hàng thế giới và các Chỉ số Phát triển thế giới từ năm 1961 trở đi cũng cho thấy sự gia tăng nhất quán. Vì tất cả mọi người đang chạy đua và tất cả đều đang trở nên giàu có hơn, nên cuộc đua này không có hồi kết.
10 Chỉ số Gini từ năm 1990 đến năm 2015 vẫn duy trì trong khoảng từ 25 đến 40. Phân phối thu nhập của các nhóm nghèo nhất và giàu nhất vẫn gần như nhau. Ngân hàng thế giới (2019), Cổng thông tin dữ liệu về nghèo đói và công bằng.
11 Ngân hàng thế giới (2014), cập nhật thông tin về những phát triển kinh tế gần đây của Việt Nam.
12 Stiglitz, J.E., A. Sen, và J. P. Fitoussi (2009), Báo cáo của Ủy ban về đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã hội.
13 Bản thân Kuznets cũng nói rằng lý thuyết của ông là một giả thuyết cần được chứng minh. Xem thêm Kuznets (1995), Tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập.
14 D. Acemoglu and J. A. Robinson (2002), The Political Economy of the Kuznets Curve. Tài liệu cảnh báo về những nguy hiểm này.
15 Dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (2019) Thống kê năng lượng quốc tế - Việt Nam.
16 Dữ liệu từ Cơ quan Năng lượng Đan Mạch (2017) Tổng quan về ngành năng lượng: BÁO CÁO TÓM TẮT.
17 Năng lượng tái tạo và năng lượng hóa thạch đều tăng liên tục từ năm 1964 đến 2017 và triển vọng đến năm 2020 dựa trên dữ liệu cập nhật năm 2016 cho thấy tỷ lệ nhiên liệu hóa thạch ngày càng lớn hơn. Xem thêm tại T. A. Nguyen (2017), Tự do hóa, Ngân hàng Thế giới và đầu tư vào hệ thống điện của Việt Nam.