“Trong tất cả mọi hình thức bất bình đẳng, bất bình đẳng về chăm sóc y tế là gây sốc và phi nhân đạo nhất.”
Tiến sĩ Phùng Đức Tùng, Giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Mekong (MDRI)
Tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều năm qua đã giúp khoảng 40 triệu người Việt Nam thoát nghèo. Tuy nhiên, tăng trưởng hiện tại đang đem lại nhiều lợi ích cho người giàu hơn so với người nghèo. Bất bình đẳng về mức sống của Việt Nam đã tăng lên trong những năm qua. Hệ số GINI của Việt Nam năm 1993 là 0,33 thì đến năm 2016 đã tăng lên ở mức 0,44. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu nhất so với 20% dân số nhóm nghèo nhất chỉ khoảng 4,4 lần thì đến năm 2016 đã tăng lên 10 lần.
Việt Nam đang có khoảng gần 10 triệu người nghèo, hầu hết trong số họ là người dân tộc thiểu số sinh sống ở các khu vực vùng sâu, vùng xa với khả năng tiếp cận với các dịch vụ công cơ bản còn hạn chế và với chất lượng thấp. Các chính sách hiện hành khó có thể giúp các hộ gia đình này thoát nghèo bởi họ thường là người già neo đơn, người khuyết tật và trẻ mồ côi. Họ cần có các chính sách bảo trợ xã hội đủ mạnh và riêng biệt hơn, có thể cung cấp một mức sống tối thiểu cao hơn chuẩn nghèo hiện có, vì họ không thể tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Họ không thể hưởng lợi từ sự tăng trưởng chung bởi họ không có cơ hội và cũng không có khả năng nắm bắt cơ hội.
Giáo dục và sức khỏe: thành tựu về số lượng, thách thức về chất lượng
Về giáo dục, ở Việt Nam không tồn tại khác biệt lớn giữa tỷ lệ nhập học giữa thành thị và nông thôn, giữa nữ và nam, giữa các vùng ở các cấp học tiểu học và trung học cơ sở.
Vấn đề lớn đối với Việt Nam là trẻ học được gì ở trường, chất lượng giáo dục và khác biệt về chất lượng giáo dục nhận được giữa các học sinh.
Kết quả đánh giá chất lượng giáo dục ở cấp tiểu học (Dự án VNEN) cho thấy kết quả môn thi Toán và Tiếng Việt của học sinh từ lớp 3 đến lớp 5 ở các tỉnh thuộc Miền núi phía Bắc, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long chỉ bằng 1/2 so với kết quả thi của học sinh các vùng còn lại, đặc biệt chỉ bằng 1/3 so với học sinh vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Điều này cho thấy bất bình đẳng về chất lượng giáo dục đã xảy ra ngay ở cấp tiểu học. Học sinh ở các vùng kém phát triển khó có cơ hội học tập ở cấp giáo dục bậc cao, đặc biệt là đối với trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em vùng sâu, vùng xa. Khác biệt về chất lượng giáo dục cho học sinh sẽ dẫn đến bất bình đẳng về cơ hội, từ đó kéo theo khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập và mức sống của các thế hệ sau, nghĩa là mục tiêu thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và không bỏ ai lại phía sau càng khó thực hiện.
Về y tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về nâng cao sức khỏe của người dân. Tuổi thọ trung bình đã tăng từ 65,2 tuổi năm 1989 lên 73,6 tuổi vào năm 2019. Chủ trương phổ cập bảo hiểm y tế cho mọi người đã gần hoàn thành.
Thành tựu trên phần lớn nhờ vào những nỗ lực và chính sách liên quan đến y tế công cộng (1) và việc mở rộng, nâng cao chất lượng hệ thống y tế xã và thôn/ bản. Việt Nam là một trong 10 quốc gia hoàn thành nhanh chóng các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về y tế.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những khác biệt lớn và dai dẳng về các chỉ số sức khỏe giữa các vùng miền, nhóm dân tộc, giữa hộ giàu và hộ nghèo, bao gồm khác biệt về tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong mẹ, tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi, và khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như dịch vụ chăm sóc trước sinh. Năng lực của các cơ sở y tế khu vực nông thôn (miền núi và hải đảo) còn hạn chế, đặc biệt do thiếu nhân viên y tế có năng lực và kinh nghiệm. Tập trung nguồn lực cho bệnh viện khiến các trạm y tế xã chưa được đầu tư đủ để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân, gây ra bất bình đẳng về tiếp cận chất lượng dịch vụ y tế giữa người dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa so với người dân thành thị.
Chi phí từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế đang tăng cao, điều này tiếp tục là thách thức đối với 10% dân số không có bảo hiểm y tế. Người có thẻ bảo hiểm y tế vẫn phải bỏ tiền túi để chi trả các khoản gây gánh nặng và không lường trước được như chi phí sử dụng trang thiết bị mua từ nguồn xã hội hóa, thuốc ngoài danh mục được bảo hiểm thanh toán, chi phí vận chuyển người bệnh, chi phí ăn uống, chỗ ở cho người nhà chăm sóc bệnh nhân.
Giảm nghèo và bất bình đẳng: Thước đo cho phát triển kinh tế - “Không để ai bị bỏ lại phía sau”
Việt Nam cũng đang đối mặt với những thách thức vô cùng lớn trong việc đạt được các mục tiêu này, không chỉ trong lĩnh vực giảm nghèo và bất bình đẳng. Việt Nam là nước chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Cụ thể, thiên tai ở miền Trung và hạn hán tại Đồng bằng sông Cửu Long những năm gần đây ngày càng trở nên khốc liệt. Nguồn lực huy động cho các Chương trình Mục tiêu ngày càng hạn hẹp do ngân sách phần lớn chỉ đủ cho chi tiêu thường xuyên của Chính phủ và hầu hết các nhà tài trợ đã rút khỏi Việt Nam. Ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, đặc biệt là ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn do nhu cầu về năng lượng cho phát triển kinh tế tăng cao và sự phụ thuộc ngày càng lớn vào năng lượng hóa thạch. Vấn đề giới và việc làm bền vững tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại bạo lực giới, đối xử bất bình đẳng trong công việc được trả công và trong gia đình, sự tham gia của nữ giới trong các vị trí lãnh đạo còn thấp.
Hơn lúc nào hết, ngoài tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần đẩy mạnh sử dụng các thước đo nghèo và bất bình đẳng đa chiều, đặc biệt các chiều giáo dục và y tế; các thước đo về phát triển bền vững cần phải là cơ sở để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế nhằm tạo ra một nền kinh tế hài hòa, bền vững và vì con người.
Nguồn tham khảo
1 Ví dụ như các chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, và cơ chế bảo hiểm y tế miễn phí cho hộ nghèo.